Minh 明 là sáng. Vô minh 無明 là tăm tối. Vô minh được xem là gốc của mọi bất thiện trong thế gian. Đó là tình trạng tâm thức không thấy sự vật như nó là, cho ảo giác là sự thật, làm cho con người mê lầm tưởng đó là sự thật mà không thấy tự tính. Vô minh xuất phát từ quan điểm chấp trước tiên thiên của ý thức, từ đó mà xây dựng lên một thế giới của riêng mình, cho thế giới đó những tính chất của chính mình và ngăn trở không cho con người thấy thế giới đích thực. Vô minh là cách nhìn thế giới sai lạc, cho thế giới là thường còn, mà thế giới thực chất là vô thường. Vô minh là một kiến giải điên đảo, cho rằng thế giới độc lập với ý thức (tâm) mặc dù thế giới và ý thức chỉ là một.
Như thế vô minh có hai khía cạnh: một là nó che đậy thế giới đích thực, hai là nó xây dựng cái ảo ảnh, cái giả. Hai mặt này luôn luôn dựa vào nhau… Trong quan niệm phương Đông, Minh và Vô minh là hai mặt của cùng sự vật, gắn bó nhau trong mối quan hệ song trùng lưỡng hợp. Vô minh khiến cho Minh có ý nghĩa. Ngược lại, sự tương phản của Minh làm cho Vô minh thể hiện ra phẩm chất của mình.
Chiều hướng của cuộc sống là làm sao giảm bớt sự Vô minh để ngày một tốt đẹp hơn. Muốn hiểu được minh triết Việt thiết tưởng cũng cần hiểu được sự vô minh trong con người Việt. Minh triết cho rằng, con người là tiểu vũ trụ, là sinh mệnh duy nhất do trời đất thành tạo, được trao phó sứ mệnh thiêng liêng. Trong suốt cuộc đời đạp đất đội trời, con người phải tự tìm hiểu cái sứ mệnh mà tạo hóa trao cho mình để rồi đem hết tâm lực thực hiện sứ mệnh của mình.
Do vậy, sự vô minh của con người là không biết mình là ai, không biết tổ tiên gốc gác từ đâu ra để rồi sống hoang dã như cây cỏ, nổi trôi như bèo bọt giữa biển lớn cuộc đời, để cho những năm tháng phí hoài. Cũng vậy, một dân tộc vô minh là dân tộc không biết mình là ai. Không biết tổ tiên gốc gác từ đâu ra. Không biết tiền nhân trải qua lịch sử thế nào, sáng tạo những thành tựu văn hóa gì… Do vậy cam phận là dân tộc vị thành niên, thiểu năng trí tuệ, sống vật vờ bên rìa thế giới văn minh.
Ngày nay, nhờ thành tựu của khoa học thế giới, ta biết rằng, 70.000 năm trước, người Khôn ngoan Homo sapiens từ châu Phi di cư tới Việt Nam. Tại đây, những nhóm người riêng lẻ gặp gỡ, hòa huyết sinh ra người Việt cổ mang mã di truyền Australoid. Rồi từ Việt Nam, con người lan tỏa ra các đảo Đông Nam Á, chiếm lĩnh Ấn Độ và đi lên khai phá Hoa lục. Người Hòa Bình mang theo công cụ đá mới, đồ gốm, giống kê, giống lúa, giống gà, giống chó… cùng tộc danh Người Việt đi lên xây dựng nền kinh tế nông nghiêp rực rỡ ở lưu vực Dương Tử và Hoàng Hà. Việt Nam là nơi phát tích của con người và văn minh phương Đông. Người Việt làm nên chủ thể của dân cư Trung Quốc. Tiếng Lạc Việt là chủ thể tạo nên ngôn ngữ Trung Hoa. Chữ tượng hình Giáp cốt văn của người Việt là chủ thể làm nên chữ viết Trung Hoa. Văn hóa Trung Hoa được xây dựng trên cơ sở văn hóa Việt… Nhưng từ đầu Công nguyên, Việt Nam bị người Hán đô hộ. Do mất đất đai, người Việt Nam mất luôn chủ quyền rồi từ đó mất chữ viết và lịch sử.
2
Sau một nghìn năm nô lệ, khi giành lại quyền tự chủ, người Việt Nam tìm cách viết cuốn sử của mình. Tài liệu để viết sử một phần nhỏ lấy từ những truyền thuyết được lưu giữ trong ký ức cộng đồng. Phần nhiều hơn rút ra từ sách sử của người phương Bắc. Dòng đầu tiên cuốn Đại Việt sử ký toàn thư chép:
“Thời Hoàng Đế dựng muôn nước, lấy địa giới Giao Chỉ về phía Tây Nam, xa ngoài đất Bách Việt. Vua Nghiêu sai Hy thị đến ở Nam Giao để định đất Giao Chỉ ở phương Nam. Vua Vũ chia chín châu thì Bách Việt thuộc phần đất châu Dương, Giao Chỉ thuộc về đấy. Từ đời Thành Vương nhà Chu [1063-1026 TCN] mới gọi là Việt Thường thị, tên Việt bắt đầu có từ đấy.”
Nay đọc lại, ta không khỏi chạnh lòng vì sự ngộ nhận đáng tiếc. Hồng Bàng thị lập nước Xích Quỷ năm 2879 TCN. Vào năm 2698 TCN nhà nước Hoàng Đế của Hiên Viên thị mới xuất hiện. Ra đời sau Xích Quỷ 181 năm thì làm sao mà Hoàng Đế “dựng muôn nước”?! Sự vô minh bắt đầu từ đấy. Chuyện bi hài cười ra nước mắt. Một dân tộc từng sinh ra toàn bộ dân cư châu Á, từng sáng tạo nền văn hóa rực rỡ, bị đánh tráo, biến thành con cháu của con cháu minh, học trò của chính học trò mình!
Cũng do không biết tổ tiên gốc gác nên cha ông ta tuy luôn nói tới “đồng bào – một bọc” mà không biết rằng, từ xa xưa các sắc dân sống trên đất Việt Nam: Thái, Mường, Mèo, Dao, Chăm, Ê đê, Khmer, Hoa… là cùng một tộc, là đồng bào để rồi sau khi giành được độc lập, học theo thói trịch thượng Đại Hán, các chính quyền quân chủ Việt Nam cho rằng, chỉ người Kinh mới là người Việt còn tất cả đều là man di.
Từ đó gây ra những điều đáng buồn, đáng trách với đồng bào thiểu số, để lại những vết hằn đau đớn trong lịch sử. Một sự vô minh cười ra nước mắt: Tổ tiên xưa làm ra chữ Khoa đẩu. Suốt trong thời kỳ chiếm đóng, kẻ thống trị dốc sức triệt phá để độc tôn chữ Hán. Khi được độc lập, cha ông ta không ngờ rằng chữ của người Mường, người Thái là chữ của Tổ tiên nên học theo thiên triều gọi một cách khinh thị là Man tự của dân man mọi nên không dùng. Để rồi buộc phải tạo ra chữ Nôm, một thứ chữ không những cực kỳ khó học mà càng cột dân tộc lệ thuộc hơn vào chữ Hán!
Từ thời Lê cho đến sau này, thiết chế nhà nước ngày càng phụ thuộc hơn vào Trung Quốc. Nhà Nguyễn càng tỏ ra vô minh hơn khi thay Bộ Luật Hồng Đức vừa dân tộc vừa tiến bộ bằng Bộ Luật Gia Long sao chép từ Luật nhà Thanh. Không chỉ vậy, triều đình còn tự nguyện biến mình thành người Hán. Sách sử chính thức của triều Nguyễn Đại Nam thực lục chép: “… Tai nghe nhiều thì quen, mắt thấy nhiều thì thuộc, cứ thế [người Miên] dần dà hòa nhập với phong tục người Hán; nếu lại có thêm sự giáo hóa của chính quyền, dùng văn hóa Hoa Hạ để biến đổi các dân tộc man di, xem ra sau vài chục năm thì có thể làm cho họ chẳng khác gì người Hán.”
Ở đây triều Nguyễn tự xưng là “Hán”, “Hạ”, “Hán dân”, khoe mình là dòng chính thống [đích hệ] của văn hóa Trung Hoa! Cũng do không biết cội nguồn gốc gác nên giữa thế kỷ XX, từ tài liệu của người Pháp, sử gia Đào Duy Anh chép vào cuốn Lịch sử cổ đại Việt Nam: “Thoạt kỳ thủy, trên đất nước ta có người Melanésien sinh sống. Khoảng 2000 năm TCN, do người Arien xâm lăng đất Ấn Độ, người Indonésien từ Ấn Độ chạy sang chiếm Đông Dương, tiêu diệt hoặc đẩy người Melanésien ra các đảo Đông Nam Á. Sau cùng, khoảng năm 333 TCN, nước Sở diệt nước Việt, người Việt tràn xuống chiếm Bắc Việt Nam, làm nên dân tộc Việt Nam hôm nay”. Không chỉ áp đặt cho chúng ta một lịch sử sai lạc mà còn gán cho dân tộc ta cái tội tổ tông là tàn bạo diệt chủng người thổ trước.
3
Tội ác được tạo nên từ sự vô minh. Vinh quang hiển hách cùng công lao vĩ đại của nhà Triệu đã nghìn năm được ghi trong tâm khảm dân tộc. Dù cuối thời Lê, Ngô Thì Sỹ có nông nổi đưa ra ý kiến phản biện thì sử gia nhà Nguyễn vẫn giữ nguyên vai trò nhà Triệu và nước Nam Việt trong chính sử. Nhưng khi giành độc lập sau 80 năm nô lệ, sử gia Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhân danh triết thuyết cách mạng học đòi từ ngoại bang, đã quy kết Triệu Đà là kẻ xâm lăng rồi trục xuất Nam Việt khỏi chính sử. Không nghi ngờ tinh thần dân tộc của những người này.
Nhưng không thể không thấy rằng, do vô minh, họ không hiểu cả dân tộc và lịch sử. Họ quy kết Lê Văn Hưu, Ngô Sỹ Liên có quan điểm viết sử phản dân tộc. Do kiến văn hạn chế, họ cho Triệu Đà là người Hán rồi trút lên ông cùng họ Triệu lòng hận thù mù quáng. Do kiêu ngạo, họ cho mình trí tuệ hơn tiền nhân. Không chỉ phản đối các sử gia tiền bối, họ còn xúc phạm Nguyễn Trãi, người viết trong Áng Thiên cổ hùng văn Bình Ngô đại cáo Trải Triệu Đinh Lý Trần nối đời dựng nước.
Họ cũng phủ định bậc Thánh nhân Hồ Chí Minh, Người đã viết: “Triệu Đà là vị hiền quân, quốc danh Nam Việt trị dân năm đời”. Nhưng vô minh nhất là họ xúc phạm hồn thiêng của hàng vạn người dân Việt đổ máu xương bảo vệ Nam Việt và các thế hệ người Việt hàng nghìn năm không ngớt khói hương kính ngưỡng Triệu Đà. Quả là vô minh khi họ cố tình không hiểu lòng dân trong câu “Thương dân dân lập đền thờ, hại dân dân đái trôi mồ thối xương”. Phải xót xa mà nói rằng, việc làm này gây đại hoạ, làm đảo lộn lịch sử, biến một dân tộc văn hiến trở thành man rợ, bất nhân thất đức nhục mạ, báng bổ Tổ tiên. Cũng từ đây dẫn tới vô minh tệ hại khác là xuyên tạc giá trị tuyệt vời minh triết của truyền thuyết Mỵ Châu – Trọng Thủy. Do tối tăm không hiểu ý nghĩa của đoạn văn “Những con trai ăn phải máu nàng Mỵ Châu sinh ra ngọc. Ngọc ấy khi đem rửa bằng nước giếng chàng Trọng Thủy trầm mình sẽ trở nên tuyệt vời trong sáng”, người ta biến chuyện tình đẹp nhất thế gian thành câu chuyện cảnh giác rẻ tiền: Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu, trái tim lầm chỗ để trên đầu!
Cũng do vô minh mà trong cuộc vận động cách mạng giải phóng dân tộc, khẩu hiệu đầu tiên được nêu lên là “Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc trốc tận rễ”. Họ không hiểu rằng, xa xưa, từ những người săn bắn hái lượm, tổ tiên ta sớm định cư để cấy trồng. Từ cộng đồng vô sản ban đầu, theo quy luật tiến hóa của cuộc sống, sẽ xuất hiện những người giỏi giang hơn, làm ăn khá giả hơn, dần trở nên giầu có. Đất nước của dân nghèo dần xuất hiện phú ông, chủ đất và những hương chức dẫn dắt làng xóm. Ở trình độ cao hơn, trong xã hội trọng xỉ – tôn trọng người cao tuổi với kinh nghiệm sống và sản xuất phong phú, việc học ra đời và trí thức xuất hiện. Trí thức là đỉnh cao phát triển của cộng đồng, như ánh sáng trí tuệ dẫn dắt dân tộc đi lên.
Từ thực tế xã hội phương Đông, Lê Quý Đôn tổng kết: “Phi nông bất ổn, phi công bất phú, phi thương bất hoạt, phi trí bất hưng”. Vì vậy tiêu diệt trí thức cũng có nghĩa là tiêu diệt bộ phận ưu tú nhất trong cộng đồng. Sự vô minh đã gây ra tội ác hủy diệt dân tộc! Một câu hỏi đau đớn gợi lên trong mỗi chúng ta là: vì sao tổ tiên sáng tạo nền văn hóa rực rỡ như thế mà vô minh bao trùm dân Việt tệ hại đến vậy? “Nghìn năm nô lệ giặc Tàu, trăm năm nô lệ giặc Tây” là suy tư thường trực, thậm chí trở thành ca từ của bài hát nổi tiếng.
Nhưng có điều, di hại của cái lịch sử ô nhục đó chưa bao giờ được đưa lên bàn nghị sự để mổ xẻ cho ra lẽ. Đó là phức cảm của một cộng đồng nhược tiểu, tổ tiên ăn lông ở lỗ mông muội, tuy dám gồng mình đánh chết bỏ để giải phóng đất đai hết lần này đến lượt khác nhưng lại cam phận ngoan ngoãn cúi đầu dưới cái bóng văn hóa ngoại bang. Không chỉ nghìn năm tự nguyện làm học trò nhỏ của văn hóa Trung Hoa mà cũng trăm năm cúi đầu ngoan ngoãn chấp nhận sự dạy bảo của những thầy Tây. Công việc của người trí thức Việt chỉ là học rồi nhờ những điều học được để vinh thân phì gia, để được danh giá với đồng bào. Hiếm, hiếm lắm trong suốt lịch sử có những người sáng tạo, vượt qua những ông thầy Tàu thày Tây, thậm chí dám cãi lại họ…
4
Cái thói quen thụ động gia nô, nhược tiểu ấy buồn thay lại trở thành nhân cách Việt. Vào thập kỷ 1920 học giả thực dân Pháp của Viễn Đông Bác cổ dạy rằng: “Tiếng Việt vay mượn 70% ngôn ngữ Hán”. Người Việt tin thế và dạy cho nhau suốt thế kỷ. Không chỉ vậy, có vị giáo sư tỏ ra giỏi hơn thầy, đã phát minh ”lớp từ Hán cổ và lớp từ Hán Việt – Việt hóa” trong tiếng Việt, khiến cho mức độ vay mượn của tiếng Việt còn cao hơn nhiều! Thật quái đản, dân ở cái xứ sông nước phải vẽ mình để tránh giao long lẽ nào không có thuyền có buồm mà phải mượn chữ “buồm” từ những kẻ chăn dê cưỡi ngựa trên đồng cỏ phương Bắc?!
Hơn hai chục năm trước, có nhà nghiên cứu trẻ rụt rè viết rằng, chữ “Kẻ”, chữ “Mơ” là từ thuần Việt liền bị cây đa Hán Nôm Huệ Thiên dáng cho đòn chết tươi: “Kẻ nguyên là chữ Cái, Giới, Giái. Còn Mơ được biến âm từ Mai của Tàu, cả Bút, Viết cũng Tàu. Khang Hy Đại từ điển ghi… Tất cả đều là Hán, 100% made in China.” Người ta tự hỏi, tổ tiên ta không có được tiếng nào riêng của mình sao?
Có người nổi quạu: “Vậy trước khi gặp người Hán, tổ tiên ta gọi tứ khoái bằng gì?” Mang tiếng đọc nhiều biết rộng mà sao “học dả” lại không hiểu rằng, sách Thuyết văn giải tự, cuốn tự điển đầu tiên của Trung Quốc là cuốn sách trình bày cách đọc và giải nghĩa tiếng Việt?
Câu chuyện khác. Người bạn gửi cho tôi bài báo trên tờ Sài Gòn Giải Phóng nhan đề “Đồng bào là gì” và yêu cầu cho nhận xét. Tác giả bài viết có biệt danh Nghê Dũ Lan tỏ ra là người hiểu biết, dẫn từ điển Thiều Chửu: “Bào là: (cái) bọc, anh em cùng một cha mẹ gọi là đồng bào (anh em ruột). Nói rộng ra, anh bố gọi là bào bá (bác ruột), em bố gọi là bào thúc (chú ruột). Người trong một nước cũng gọi là đồng bào, nghĩa là cùng là con cháu một ông tổ sinh ra vậy.”
Rồi bình: “Cách giảng như Thiều Chửu (đồng bào: cùng là con cháu một ông tổ sinh ra) có lẽ dễ làm ‘vừa bụng’ không ít người quen nghĩ rằng “đồng bào” là một từ do người Việt sáng tạo ra. Đơn cử là Bách khoa toàn thư mở Wikipedia (bản sửa đổi lần cuối lúc 08:43, ngày 25-1-2007) viết như sau (http://vi.wikipedia.org/…): “Đồng bào là một cách gọi giữa những người Việt Nam, có ý coi nhau như con cháu của cùng tổ tiên sinh ra. Từ đồng bào được sử dụng dựa trên truyền thuyết Trăm trứng nở trăm con. [sic] Truyền thuyết kể rằng Lạc Long Quân lấy Âu Cơ và sinh ra một bọc trứng và nở ra một trăm người con là dân tộc Việt Nam ngày nay.”
“Nếu hiểu lầm chỉ dân tộc nào vốn cùng từ một “bọc” của Âu Cơ đẻ ra mới được gọi “đồng bào” thì đương nhiên hai dân tộc Hoa và Khmer không thể gọi là “đồng bào”. Quan niệm này vừa sai, vừa nguy hiểm vì nó dễ đưa tới tinh thần phân biệt, kỳ thị (discrimination) làm phân hóa sự đoàn kết các dân tộc trong cùng một lãnh thổ quốc gia!”. “Sự thật, người Việt đã vay mượn hai chữ “đồng bào” từ Hán ngữ, cho nên “đồng bào” không phải là một sáng tạo của người Việt dựa theo huyền sử một bọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ như Wikipedia đã “tưởng tượng”! Ta dễ dàng thấy mục từ “đồng bào” trong các từ điển chữ Hán không do người Việt soạn, chẳng hạn:
1. Mathews’Chinese-English Dictionary (Shanghai: China Inland Mission and Presbyterian Mission Press, 1931), mục từ 6615-118 giảng là “uterine brothers; compatriots” (đồng bào huynh đệ là anh em một mẹ; người cùng một nước).
2. Từ điển Hán-Việt do Hầu Hàn Giang và Mạch Vĩ Lương cùng chủ biên (Bắc Kinh: Thương Vụ ấn thư quán, 1994, tr. 663) giảng đồng bào là: “anh chị em ruột”.
3. Chinese-English Dictionary Online (www.chinese-learner.com/dictionary) giảng là “fellow citizen or countryman”, tức đồng bào là người dân cùng một nước.
Tóm lại, đồng bào đơn giản chỉ có nghĩa là người dân có cùng quốc tịch, là công dân của cùng một nước. Vậy thì nói đồng bào người Hoa, đồng bào người Khmer là hoàn toàn đúng, là xác định hai thành phần anh em trong đại gia đình Việt Nam gồm 54 thành phần mà ta thường gọi là 54 dân tộc.”
5
Con người thông thái đang mạnh miệng dạy dỗ đồng bào mình trên tờ báo Sài Gòn Giải phóng quên rằng, truyền thuyết Một bọc trăm trứng xuất hiện thời Xích Quỷ. Khi Xích Quỷ tan rã, người Việt sống trên đất Trung Hoa vẫn giữ truyền thuyết nguồn gốc của mình. Các nhà nước Trung Quốc về sau tiếp thu truyền thuyết này. Nhưng do không hiểu ý nghĩa sâu xa của nó nên đã giảng theo thực tế dân cư Trung Quốc, phục vụ ý đồ chính trị. Dù Trung Quốc có tới 5 chủng tộc khác nhau là Hán, Hồi, Mông, Mãn, Tạng thì họ vẫn dùng từ “đồng bào”.
Khái niệm đồng bào của người Việt vốn chỉ mối quan hệ nội bào, đồng tộc, cùng tổ tiên, dòng giống, trên đất Trung Hoa trở thành khái niệm quốc gia: mọi chủng người trong một quốc gia đều được gọi là đồng bào! Nghĩa mở rộng này được ghi vào từ điển Hán ngữ. Các nhà soạn từ điển phương Tây thế kỷ XIX, XX, là những học trò của văn hóa Hán, hoàn toàn tin rằng, chữ vuông do người Trung Quốc sáng tạo, ghi chép những sự kiện lịch sử văn hóa Trung Hoa nên đã căn cứ vào tự điển Trung Quốc để soạn thảo từ điển của mình, như tác giả bài viết đã dẫn.
Cũng như vậy, đồng bào vốn là tên gọi ban đầu của người Việt: cùng một bào thai hay cùng bọc. Tới thời Đường được chuyển thành Đường âm: cùng – đồng; bọc – bào. Sau nữa, qua thời Thanh, quan thoại Bắc Kinh nói “tủng pao”. Trong khi người Quảng Đông nói “tồng pào”! Riêng tại đất gốc Việt Nam, người Việt vừa dùng đồng bào nhưng cũng nói một bọc! Điều bi hài cười ra nước mắt ở đây là: chữ nghĩa đúng của người Việt, bị con cháu là người Trung Quốc hiểu sai rồi ghi thành kinh điển. Kinh điển Tàu được chuyển thành kinh sách Tây! Ông cha ta xưa học Hán tự nên hiểu sai, bái phục các thầy Tàu uyên thâm: chữ thánh hiền có bao giờ sai!
Con cháu bây giờ thông thái hơn, đọc được cả chữ Tàu, cả chữ Tây nên càng tin sái cổ những cái… sai rồi vênh vang đem về dạy (dọa) đồng bào mình. Lý lẽ chắc nịch hàng tấn: sách Tàu nói, sách Tây nói?! Chỉ có Cụ Lạc Long Quân, Cụ Hùng Vương từ trên cao xanh nghe mà cười ra nước mắt: do vô minh nên cháu con tôn lũ dốt làm thầy rồi cúc cung học cái ngu! Sang đầu thế kỷ này khi khoa học đọc cuốn thiên thư ADN được tạo hóa ghi trong máu huyết đồng bào châu Á, khám phá rằng đất Việt là nơi phát tích của dân cư phương Đông, tiếng Việt là chủ thể làm nên ngôn ngữ Trung Hoa thì một “trí thức” Việt vẫn viết những dòng không chỉ nhục mạ tổ tiên mà còn phản khoa học như thế này: “Sớm nhất là sau năm 81 BC, bắt đầu ở Cửu Chân và sau đó tại quận Giao Chỉ và Nhật Nam người Hán thâm nhập Việt Nam. Từ đó ngôn ngữ Việt được khoác lên bộ áo ngoài rực rỡ nhất, lòe loẹt nhất, chiếm đến 70% từ vựng Việt Ngữ.” (1) Một người khác, Tiến sỹ Hán Nôm Trần Trọng Dương ăn theo “học dả” Hoa Kỳ L. Kelley mà chí ít bị hai tác giả người Việt gọi là ngu, cho rằng truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ là “diễn xướng từ tiểu thuyết Liễu nghị truyện của Tàu”(!)
6
Trong một Hội thảo khoa học ở Hà Nội, vị giáo sư triết học tặng tôi tập tài liệu “Tư duy tổng hợp” do ông biên soạn theo một chương trình được Nhà nước tài trợ. Với vẻ trân quý, ông dặn: “Anh ráng đọc rồi góp ý cho tôi nhé!” Đọc xong, từ Sài Gòn, tôi gửi ông điện thư: “Người Việt là tổ sư của tư duy tổng hợp. Nếu nghiên cứu kỹ lối tư duy của tổ tiên rồi viết, bác sẽ là thầy của những giáo sư này thay vì làm học trò của họ!”. Đau ở chỗ, do vô minh không biết mình là ai, sở trường sở đoản thế nào nên luôn nghĩ mình ngu hơn thiên hạ, lại biếng lười không dám suy nghĩ độc lập nên bất cứ điều gì cũng dịch của thiên hạ ra để học! Ai ai cũng tự nguyện làm học trò, biến cả dân tộc truyền đời thành học trò mà nhiều khi bi hài là làm học trò của chính học trò mình!
Do vô minh, nhiều người không biết rằng, do sống bằng nông nghiệp, dân phương Đông quan tâm đồng đều tới các yếu tố khác nhau của môi trường nên hình thành thói quen tư duy tổng hợp. Từ đây sáng tạo nguyên lý Âm Dương rồi Dịch lý, đỉnh cao của trí tuệ nhân loại. Trong khi đó người phương Tây theo phương thức sống du mục trọng động nên hình thành thói quen tư duy phân tích: phát hiện nhanh những yếu tố khác nhau của môi trường. Tập quán này dẫn người phương Tây theo xu hướng thành triết gia duy lý và nhà khoa học. Sự thật lịch sử đã chia Đông Tây thành hai thế giới khác nhau về văn hóa. Mỗi bên có mặt mạnh và mặt yếu của mình. Nhưng hơn 300 năm nay văn minh phương Tây thống trị thế giới đã chèn ép văn hóa phương Đông khiến cho dân phương Đông mặc cảm về sự thấp kém của mình rồi tôn phục văn minh phương Tây. Điều này khiến cho phương Đông bị tha hóa, đánh mất bản sắc.
Không biết rằng, tư duy tổng hợp phương Đông có nhiều lợi thế để phát huy làm nên sự tốt đẹp không chỉ cho phương Đông mà cho cả thế giới. Do vậy, rất nhiều dân phương Đông đôn đáo học theo phương Tây rồi rơi vào bi kịch “giở trăng giở đèn” không còn giữ được bản sắc phương Đông nữa nhưng cũng chẳng bao giờ tiến bằng phương Tây. Đúng như điều cổ nhân đã dạy: “Hộ đoản chung đoản, canh trường bất trường” – Theo cái ngắn thì cuối cùng sẽ ngắn, trồng cái dài cũng chẳng được dài!
Do vậy, công việc hiện nay của người Việt là giải vô minh, nhận lấy ánh sáng minh triết. Giải vô minh, trước hết là phải viết lại sử Việt nhằm hiểu thực chất cội nguồn dân tộc từ đâu ra, có quá trình vận động thế nào để có mặt trên đất nước ta như ngày hôm nay. Từ đó ngõ hầu tìm lại bản sắc của mình, thế mạnh của mình để vững tin trên con đường đi tới. Đó là công việc to lớn và khó khăn nhất mà trước đây chưa thể làm. Rất mừng là, sang kỷ nguyên mới, nhờ trí tuệ nhân loại, chúng ta đã tìm ra lịch sử chân thực của dân tộc. Một lịch sử vô cùng vẻ vang: đất Việt Nam là nơi phát tích của dân cư châu Á.
Từ đây, lớp lớp người Việt đi ra chiếm lĩnh thế giới và xây dựng văn hóa Việt rực rỡ mà đỉnh cao là minh triết Việt. Minh và vô minh là hai mặt của cuộc đời. Chỉ bằng sự giác ngộ, phá chấp, con người xua dần cái tối tăm để sống trong ánh sáng Minh triết, đó chính là Đạo Việt mà tổ tiên tu tập hàng vạn năm truyền lại cho chúng ta.
Hà Văn Thùy – Sài Gòn, Xuân Kỷ Hợi.
Bình luận