XÃ HỘI LUÔN CẦN NHIỀU “KHÔNG GIAN VĂN HÓA”
LỜI GIỚI THIỆU
Nói về ngày Lễ Quốc khánh đầu tiên 2/9/1945, trên Quảng trường Ba Đình, ai cũng thấy ấn tượng khi biết một nữ sinh Hà Nội đã cùng một nữ chiến sĩ người Tày mặc áo màu chàm từ chiến khu Việt Bắc về đã kéo cao lá cờ đỏ sao vàng trên kỳ đài, trước lúc Bác Hồ đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” lịch sử.
Ảnh: Nữ sinh Dương Thị Thoa (trái) khi là học sinh trường Đồng Khánh, Hà Nội và cũng là thời gian bắt đầu các hoạt động yêu nước; và Ảnh bà chụp trên quảng trường Ba Đình (phải) nhân dịp kỷ niệm Quốc khánh lần thứ 50, ngày 2/9/1995.
Người nữ sinh Thủ đô đó là Giáo sư Lê Thi, tên thật là Dương Thị Thoa, con Giáo sư Dương Quảng Hàm, Hiệu trưởng đầu tiên của trường Chu Văn An – trường Bưởi dưới thời chính quyền Cụ Hồ. Ông đức độ, nghiêm cẩn, tài năng, học trò thời đó ai cũng kính trọng, quý mến. Giáo sư cũng là một liệt sĩ cách mạng hy sinh từ những ngày đầu cuộc Toàn quốc kháng chiến. Tháng 9/1946, GS. Lê Thi gia nhập Đảng, phụ trách Hội Phụ nữ Cứu quốc Hoàn Kiếm. Toàn quốc kháng chiến bùng nổ, bà cùng Trung đoàn Thủ đô chiến đấu 60 ngày đêm ở Hà Nội. Trong kháng chiến bà giữ nhiều vị trí công tác khác nhau, trước khi nghỉ hưu năm 2000, bà làm Viện trưởng Viện Triết học, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Gia đình và Phụ nữ (Nay đổi tên là Viện Gia đình và Giới). Bà đi nhiều, biết nhiều, nhưng bà nhớ nhất những nơi bà đã gắn bó, trưởng thành, đã tham gia hoạt động như gia đình, nhóm các bạn học, một phong trào, một tổ chức, v.v. Bà gọi chung đó là “không gian văn hóa”. Theo bà, càng ít “Không gian Đấu tranh”, càng nhiều “Không gian Văn hóa”, dân tộc càng tiến bộ. Giờ đây tuy sức khỏe không còn được như xưa, song ở bà vẫn còn nguyên ánh mắt trong sáng sôi nổi của cô nữ sinh Đồng Khánh Hà Nội ngày nào khi bà băn khoăn, trăn trở: Làm thế nào để đất nước ta, dân tộc ta có ngày một nhiều những “Không gian Văn hóa”? Tháng 5/1941, dưới sự chủ tọa của Lãnh tụ cách mạng Nguyễn Ái Quốc vừa mới trở về nước, Hội nghị BCH Trung ương Đảng đã họp và khẳng định: “Trong lúc này quyền lợi bộ phận của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc”. (Văn kiện Đảng toàn tập, T.7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000). Có lãnh tụ mới, Đảng đã thay đổi mục tiêu và đường lối đấu tranh phù hợp với giai đoạn cách mạng mới. Nhờ vậy, ngày 2/9/1945 đất nước độc lập. Ngày 2/9/1946, trong cuộc họp mặt với Việt kiều tại Paris, kỷ niệm một năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9, Bác Hồ đã nói về nguyên nhân thành công: “Chính sự đoàn kết, đoàn kết hoàn toàn và không gì phá vỡ nổi của toàn thể nhân dân chúng ta, đã khai sinh ra nước Cộng hoà của mình… Một dân tộc đã có một nền văn hoá lâu đời, nhưng lại có đủ khả năng để trẻ lại…” Những nội dung lời Bác Hồ nói vừa nêu ở trên đã được GS. Lê Thi, qua những trải nghiệm của chính mình, mô tả sinh động trong bài viết “Xã hội luôn cần nhiều không gian văn hóa”. Bài viết gồm ba phần: Phần 1. Văn hóa và Chính trị là nguồn cung cấp năng lượng thắp sáng ngọn đèn Lý luận; Phần 2. Xã hội luôn cần “không gian văn hóa” và những người trí thức tạo ra các “không gian văn hóa mới”; Phần 3. Xã hội dân sự – phức hợp các không gian văn hóa. Qua những “không gian văn hóa” mà GS. Lê Thi đã trải nghiệm từ trước Cách mạng Tháng 8 đến nay, bài viết đã trình bày chân thực những quan niệm mới dưới góc nhìn “Văn hóa” về những vấn đề mà chúng ta đang quan tâm như: Nguyên nhân nào đã làm xã hội ta vẫn còn lạc hậu? Làm thế nào để đất nước ta phát triển? Ban Biên tập ———————————————————————– |
Phần I |
VĂN HÓA VÀ CHÍNH TRỊ LÀ NGUỒN CUNG CẤP |
NĂNG LƯỢNG THẮP SÁNG NGỌN ĐÈN LÝ LUẬN |
———————————
1. Quan niệm về “Trí thức” và “Không gian văn hóa”. Bài viết này trình bày các sự việc theo quan niệm “không gian văn hóa”. Có thể hiểu một cách đơn giản, không gian văn hóa là một môi trường xã hội, trong đó thúc đẩy con người “Nghĩ” những ý nghĩ tốt đẹp, “Làm” những việc làm tốt đẹp. Với tôi, “không gian văn hóa”, hay đầy đủ hơn “không gian văn hóa truyền thống” quan trọng nhất là gia đình. Tôi sinh ngày 3/6/1926 trong một gia đình nhà giáo, ông bà nội, ngoại theo Nho học, còn bố mẹ thì cả Nho học và Tân học, nhờ thế hai cụ đối xử bình đẳng với các con, trai cũng như gái. Bố tôi là Giáo sư Dương Quảng Hàm, ông dạy văn và sử Việt Nam ở trường Bưởi, mẹ tôi bán tạp hóa. Bố mẹ tôi có 8 con, 4 trai, 4 gái. Bốn chị em đều học trường Đồng Khánh, Hà Nội, bây giờ là trường Trưng Vương. Vì là trường nữ sinh, nên chỉ có cô giáo, thỉnh thoảng mới có một thầy dạy vẽ. Chị em tôi sau giờ học ít đi chơi phố và không có các bạn trai. Từ thâm tâm, tôi rất cảm ơn cha mẹ tôi đã cho tôi ăn học, cung cấp cho tôi những kiến thức quý báu cần thiết cho hoạt động cách mạng sau này, đặc biệt đã rèn luyện trong tôi nếp sống, đạo đức của con nhà giáo: Trọng “Nhân”, “Nghĩa”, “Lễ”, “Trí”, “Tín”, không trọng giầu sang, danh vọng, bạo lực. Với tôi, đó là cơ sở nền tảng, gốc gác cho sự phát triển nhân cách của con người. Ảnh: Giáo sư Dương Quảng Hàm thời trẻ. Tôi coi bố tôi – Giáo sư Dương Quảng Hàm không chỉ là người lao động trí óc có bằng cấp mà là một người trí thức thực sự bởi ông đã giáo dục chúng tôi biết yêu cả văn hóa truyền thống, cũng như biết yêu cả những yếu tố của văn hóa mới như bình đẳng, nhân quyền,… và lúc cần thì phải biết đấu tranh cho tiến bộ. Vì thế, với tôi văn hóa gia đình, văn hóa mới, đạo đức cách mạng, đều đan xen ảnh hưởng, không hề mâu thuẫn. Sau ngày 2/9/1945, bố tôi làm Hiệu trưởng trường Bưởi. Ông cụ bảo “Chính phủ chưa ra lệnh cho hiệu trưởng nghỉ, chỉ mới cho học sinh nghỉ tản cư” nên ngày nào cũng đến trường Bưởi trực, sáng đi tối về. Toàn quốc kháng chiến bùng nổ, bố tôi bố trí mẹ tôi tản cư trước. Sau ngày 19/12/1946 ít hôm, giặc Pháp tràn lên phố Hàng Bông, bắt bố tôi và một số người nữa rồi bắn chết. Có tin là bắn ở khu đất trống ở Tòa án tối cao bây giờ, nhưng không tìm được hài cốt. Bấy giờ gia đình tôi làm mộ giả ở quê, sau này, nhà nước công nhận cụ là liệt sĩ. Tôi cho rằng có lẽ không riêng tôi mà lớp thanh niên thủ đô, đặc biệt lớp học sinh trẻ tham gia Cách mạng tháng Tám 1945 tại Hà Nội cũng gặp những điều tương tự, tuy hoàn cảnh gia đình có thể khác nhau, nhưng đều tiếp nhận ảnh hưởng của văn hóa truyền thống dân tộc, văn hóa Hồ Chí Minh. Về già thấy thấm thía hơn, rằng những văn hóa này đã góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam thế hệ chúng tôi trong giai đoạn mới của đất nước. Với tôi, Cách mạng Tháng 8 trước hết là một sự thay đổi vĩ đại mang lại Độc lập cho đất nước, đồng thời tạo nên một “không gian văn hóa mới”. Không gian văn hóa lớn này lại tương tác với các không gian văn hóa khác làm nảy sinh các không gian văn hóa mới. Ví như Cách mạng Tháng 8 đã tác động đến hàng ngàn vạn gia đình, trường học, các nhóm bạn bè, cơ quan, xí nghiệp,… làm những cộng đồng này thêm sức sống mới, tạo nên những hoạt động mới trước đây chưa có. Sức sống của một xã hội phát triển còn thể hiện ở việc hình thành các không gian văn hóa mới. Đó có thể chỉ là các hoạt động cụ thể như Tuần lễ quyên góp vàng ủng hộ Chính phủ hay phong trào Bình dân học vụ, trong đó người biết chữ tự nguyện giúp người chưa biết đọc, biết viết. Đó cũng có thể là các tổ chức mới, trước đây chưa có như Đoàn Phụ nữ cứu quốc, Đoàn thanh niên Cứu quốc, hay tự vệ sao vuông Thủ đô,… Có nhiều định nghĩa về trí thức, từ định nghĩa của Mác đến những người khác, song đều xem trí thức là những người hiểu biết, có ý thức về xã hội, dám đấu tranh với cường quyền vì quyền lợi cộng đồng, vì tiến bộ xã hội. Trí thức có thể là người lao động trí óc có bằng cấp cao, nhưng cũng có thể là công nhân hay nông dân. Theo góc nhìn văn hóa, có thể nói, trí thức là những người hiểu biết, có ý thức về xã hội, họ là những người tiên phong trong việc hình thành và vận động những người xung quanh cùng xây dựng những “không gian văn hóa” mới. Đương nhiên, họ đủ dũng cảm để vững vàng trước khó khăn gian khổ. 2. Khi mà Văn hóa và Chính trị đã trở nên lạc hậu, thì ngọn đèn Lý luận dù đã từng sáng chói, song rồi cũng lụi tàn do không đủ năng lượng. Trước đây tôi làm công tác nghiên cứu lý luận, song nay phần vì sức khỏe, phần vì còn quan tâm các vấn đề khác, nên cũng không tập trung đọc nhiều, không theo sát những đổi mới trong lĩnh vực này. Xã hội Việt Nam hiện nay, bên cạnh những tiến bộ về vật chất thì đáng tiếc về phương diện tinh thần không được như vậy, bởi nhiều tệ nạn hơn, bất an hơn, tiềm năng khủng hoảng trong mọi lĩnh vực, không chỉ trong kinh tế, mà đặc biệt trong trong văn hóa, giáo dục, khoa học,… không ngừng gia tăng. Tình trạng này dẫn đến một vấn đề hết sức nghiêm trọng, đó là khủng hoảng Niềm tin, nói đơn giản là mất niềm tin. Chúng ta đang mất niềm tin ở sự tiến bộ xã hội, mất Niềm tin ở cộng đồng, mất Niềm tin ở lãnh đạo, v.v.. Có tình trạng trên thường được cho rằng, nguyên nhân là do chúng ta bị Khủng hoảng Lý luận. Chính sự lạc hậu đã làm công tác lý luận trở thành cản trở, thậm chí còn đi ngược đà phát triển chung của dân tộc và xu thế tiến bộ của nhân loại. Dễ có nhận định như vậy bởi công tác Lý luận của chúng ta hiện nay bộc lộ rõ nét ba đặc trưng cơ bản như sau: Thứ nhất, là lầm lẫn giữa mục tiêu và giải pháp. Đây là căn bệnh cố hữu trong công tác lý luận khi coi Ý thức hệ, vốn là Giải pháp, lại thành Mục tiêu, thậm chí thành tín điều tôn giáo. Vì thế, mới phổ biến các quan niệm kiểu “Bản chất thời đại không thay đổi”; “Kiên định Chủ nghĩa”; “Giữ vững lập trường giai cấp”; v.v.. Điều này báo hiệu những thách thức lớn, nhưng đồng thời cũng báo hiệu những cơ hội lớn đang tới gần, tạo đà cho đất nước thay đổi. Thứ hai, chậm trễ. Nên nhớ rằng, việc đúng nhưng thực hiện sai thời điểm nói chung là mang lại hậu quả xấu, thậm chí không ít trường hợp còn gây tác hại chẳng kém gì phá hoại. Vậy mà chúng ta hay xem nhẹ, còn thanh minh hộ là do có “động cơ tốt”. Công tác lý luận có ý nghĩa dẫn đường cho chúng ta khỏi lạc hậu với thực tiễn, điều đó ai cũng biết, nhưng dẫn đường thì phải đi trước, chậm trễ đi sau thì hậu quả là cả đoàn, trong đó có mình, đương nhiên là đi lạc. Lại nhớ lời Đức Phật dạy, kẻ vô minh nhất, tức là những kẻ không “biết” nhất, chính là những kẻ “Hại mình, hại người”. Những người không có năng lực dẫn đường, nhưng lại cứ “quá hăng hái”, không để những người thạo đường làm việc, là thuộc vào trường hợp này, bởi họ sẽ kéo cả đoàn, trong đó có họ, lâm vào tình trạng bế tắc, không có lối ra. Tôi thấy Bác Hồ cái gì cũng “BIẾT”. Vì vậy, thế giới mới suy tôn là Danh nhân Văn hóa. Người nói, lãnh đạo phải biết lao động chân tay, công nhân phải biết về quản lý. Người cũng dạy “Không biết thì chỉ là chính trị xuông, không lãnh đạo được”. Thứ ba, chưa biết và chưa dũng cảm nhận khuyết điểm, không minh bạch. Lý luận trước hết là khoa học. Đây không phảỉ là khoa học tự nhiên hay khoa học xã hội, càng không phải là khoa học công nghệ, mà là khoa học thống nhất các khoa học. Nên nhớ, đặc tính đầu tiên của khoa học là tính logic nội tại. Điều này có nghĩa sẽ không khoa học, khi trong cùng một sự việc mà câu trước thì “phải đột phá”, câu sau thì “phải kiên trì”. Như thế là “chưa biết” về khoa học, mà “chưa biết” thì như Bác Hồ nói, không thể làm lãnh đạo được, nhất lại là lãnh đạo Lý luận. Đánh giá về nguyên nhân của tình trạng này, tôi cho rằng, không chỉ sự yếu kém của công tác lý luận gây nên tình trạng văn hóa, chính trị, kinh tế – xã hội ta chậm phát triển, mà cũng như giáo dục, khoa học,…, chính Lý luận cũng bị ảnh hưởng tiêu cực do bởi Chính trị và Văn hóa đi xuống. Vấn đề là, để Việt Nam có được nhiều những ngọn đèn lý luận khác nhau chiếu rõ con đường phát triển, chúng ta cần làm gì? 3. Văn hóa mới, Chính thể mới, tạo nên từ Văn hóa, Chính thể Hồ Chí Minh, kết hợp với tinh hoa văn hóa của nhân loại, sẽ tiếp nguồn năng lượng, tạo nên sức sống mới cho lý luận. Cổ nhân nói “Ngõng cửa xoay không có mối mọt, dòng nước chảy không có bọ gậy”, việc “Kiên định không thay đổi” sẽ tạo nên các “Không gian thiếu văn hóa”, còn “Sáng tạo và dũng cảm thay đổi” sẽ tạo ra các “Không gian văn hóa mới”. Có thể nói, tạo ra các “không gian văn hóa mới” chính là nhu cầu thiết yếu, đang ngày một tăng của xã hội và là nghĩa vụ của người trí thức. Thực tiễn cho thấy Văn hóa Hồ Chí Minh, chính thể Hồ Chí Minh không chỉ xuất phát và nâng tầm văn hóa truyền thống Việt Nam, mà trong đó còn có tính thời đại. Khác hẳn với triết lý cốt lõi “Đấu tranh giai cấp” của Chủ nghĩa Mác – Lênin, chỉ biết có công, nông; Triết lý “Đoàn kết” của Bác Hồ, không phân biệt tôn giáo, chính kiến, v.v., rất gần với bản chất “Hội nhập” hôm nay của nhân loại. Tôi nghĩ, Học thuyết nào cũng chỉ là công cụ, nó ví như con dao, trong tay kẻ ác thì là công cụ xấu, trong tay người lao động lương thiện thì là công cụ tốt. Internet cũng vậy, nó làm con người gần nhau, hiểu biết hơn nhưng cũng không ít trường hợp, nó lại thúc đẩy những dục vọng tầm thường, và một ví dụ nữa, nọc rắn độc, chất gây nghiện, v.v., rất có hại song trong y tế lại có tác dụng tốt. Vì thế, “Thay đổi Ta” chính là cái “Dĩ bất biến” mà Bác Hồ đã dùng để “Ứng” và đưa cả dân tộc băng qua muôn “Vạn biến”? |
Phần II | ||||||||||||||||
XÃ HỘI LUÔN CẦN “KHÔNG GIAN VĂN HÓA” VÀ NHỮNG | ||||||||||||||||
NGƯỜI TRÍ THỨC TẠO NÊN “KHÔNG GIAN VĂN HÓA” MỚI | ||||||||||||||||
———————————
1. Từ 17-19/8/1945, người dân Hà Nội, dẫn đầu là thanh niên học sinh, sinh viên, được Việt Minh lãnh đạo, đã xây dựng thành công một không gian văn hóa vĩ đại. Năm 1943, tôi học năm thứ 4 Thành chung, bà Giám đốc Pháp bắt học sinh các lớp tập hát, múa, đóng kịch, tổ chức lễ hội yêu nước để lấy tiền ủng hộ Mẫu quốc Pháp. Có ông Lưu Hữu Phước đến dạy hát, ông Thế Lữ hướng dẫn tập vở kịch “Tục lụy”. Chúng tôi rất vui vì chưa bao giờ quang cảnh trường học lại tự do và thoải mái như vậy. Sau ngày lễ đó, chúng tôi lại làm một buổi biểu diễn riêng lấy tiền ủng hộ Hội truyền bá quốc ngữ. Trong buổi đó chị bạn cùng lớp tôi là Nguyễn Thị Tâm (bí danh hoạt động là Tuyết Minh), mới hỏi tôi: “Có thích đọc báo không?”, tôi hỏi báo gì, chị ấy nói: “Báo chiến khu chuyển về”. Tôi tò mò xin đọc. Hóa ra là Báo Cứu Quốc. Chị ấy nói đọc xong thì chuyển cho người khác. Ý thức yêu nước của chúng tôi bắt đầu như thế. Như đã nói, với tôi Cách mạng Tháng 8 là một không gian văn hóa vĩ đại nhưng gần gũi. Vì là một không gian văn hóa, cho nên nó phải do những người trí thức thực hiện. Việc tạo lập “Không gian văn hóa” này với tôi bắt đầu từ chị bạn cùng lớp Tuyết Minh, sau này là chính trị viên đại đội thuộc Trung đoàn Thủ đô. Khi đó chị đã vào Mặt trận Việt Minh. Qua Báo Cứu quốc, qua chị ấy tôi biết thêm về Việt Minh, về cụ Nguyễn Ái Quốc…; Với tinh thần yêu nước, tôi cố gắng phổ biến báo chí, tổ chức quyên góp tiền, gạo, muối, cá khô, thuốc men để gửi lên chiến khu, còn gửi thế nào tôi không biết. Đương nhiên, chúng tôi càng chưa bao giờ nghe nói đến Chủ nghĩa xã hội, tới chủ nghĩa Mác – Lênin. Lúc bấy giờ tổ chức Việt Minh gồm có Đoàn Phụ nữ cứu quốc, Đoàn Thanh niên cứu quốc và Mặt trận Việt Minh. Tháng 1/1945, tôi chính thức được vào Đoàn Phụ nữ cứu quốc, lễ kết nạp tổ chức bí mật tại nhà chị Hảo ở Phà Đen. Nhiệm vụ tôi vẫn là đi tuyên truyền và tổ chức quyên góp. Hơn một tháng trước ngày khởi nghĩa, chị Tuyết Minh nói với tôi là chuẩn bị lên chiến khu. Tôi mừng lắm, không nói với ai trong gia đình, lặng lẽ gói ghém quần áo. Nhưng thực ra có lên chiến khu gì đâu, mà đến ở nhà chị ấy để chuẩn bị cho khởi nghĩa. Chúng tôi học các bài hát Diệt phát xít, Tiến quân ca, đọc báo Cứu quốc,… Ngày 17/8/1945, chúng tôi tập hợp trước quảng trường Nhà hát lớn để dự mít tinh của Tổng Hội viên chức do Chính phủ Trần Trọng Kim tổ chức. Được ít phút là lá cờ đỏ sao vàng từ gác hai nhà hát buông xuống, rồi hai chị đại diện Mặt trận Việt Minh xuất hiện. Chúng tôi hô khản giọng “Muôn năm Việt Nam”, “Việt Minh muôn năm”, rồi vẫy tung cờ đỏ sao vàng bằng giấy đã chuẩn bị sẵn. Từ đó, chúng tôi tỏa ra các phố, vừa đi vừa hát và hô vang các khẩu hiệu. Càng đi đoàn người càng đông, vừa biểu dương và thu hút lực lượng cho Việt Minh. Ảnh: Mít tinh ngày 17/8/1945 tại Nhà hát Lớn. Từ mít tinh ngày 17/8/1945 tại Quảng trường Nhà hát Lớn của Tổng hội viên chức Chính phủ Trần Trọng Kim, đã biến thành cuộc tuần hành quần chúng theo Việt Minh. Khí thế của quần chúng và thái độ “Đặt quyền lợi Tổ quốc trên hết” của chính phủ cũ đã góp phần làm nên cuộc Cách mạng Tháng 8 không đổ máu. Đến ngày 19/8/1945 thì số người tham gia lên rất đông. Sau khi dự mít tinh và nghe đại diện Việt Minh tuyên bố đánh đổ phát xít Nhật và thực dân Pháp, giành chính quyền về tay nhân dân, chúng tôi tỏa đi các nơi. Chúng tôi được chỉ định cướp trại Bảo an binh ở Hàng Bài. Chúng tôi là con gái nên được đưa lên hàng đầu, giáp mặt với lính Nhật gác cửa trại. Cả đoàn hò hét: Mở cửa ra, hạ súng xuống! Hai lính Nhật lăm lăm súng nhưng cũng phải mở cửa. Mọi người ùn ùn kéo vào rầm rộ chiếm trại lính, cử người gác những điểm quan trọng, còn lại đi động viên, thuyết phục lính bảo an ủng hộ Cách mạng. Chính trong dịp này, tôi biết ông Đinh Ngọc Liên, nhạc trưởng đoàn quân nhạc trại Bảo an binh, ngày ấy vẫn gọi là ông Quản Liên. Ông ấy bảo: “Tưởng Việt Minh thế nào, hóa ra toàn các cô thiếu nữ quần trắng áo dài”. Ông Liên đã gặp ông Vương Thừa Vũ, trung đoàn trưởng Trung đoàn Thủ đô và đã đưa cả đội kèn về với Việt Minh, đây là tiền thân của tiểu đoàn quân nhạc quân đội ta tháng 11/1955 đã đón Bác Hồ, Trung ương Đảng và Chính phủ về Thủ đô. Ông Liên có nhiều công với cách mạng và được phong hàm đại tá. Nhưng đó là chuyện sau, còn lúc đó, trong không khí phấn khởi, ông chỉ huy dạo nhạc cho chúng tôi hát Tiến quân ca, Diệt phát xít. Sau khi chiếm xong trại Bảo an binh, vài ngày sau chúng tôi được lệnh rút khỏi trại trở về khu phố tuyên truyền cho bà con về Mặt trận Việt Minh, chuẩn bị cho ngày Tuyên ngôn Độc lập 2/9/1945.
|
Bình luận